Showing posts with label Làng nghề. Show all posts
Showing posts with label Làng nghề. Show all posts

Tuesday, June 5, 2012

Nem Bùi, đặc sản miền Kinh Bắc

Nói đến Kinh Bắc, ngoài quan họ, bánh phu thê, bánh tẻ, ít người biết ở mảnh đất “Em ơi buồn làm chi, anh đưa em về bên kia bờ sông Đuống” còn một đặc sản dân dã rất ngon và độc đáo: nem Bùi.
Nem Bùi được khai sinh ở làng Bùi, xã Ninh Xá, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trải qua bao thăng trầm, vài năm trở lại đây nem Bùi dần có mặt trên thị trường và trở thành món ẩm thực ngon, rẻ, đồng thời là món quà trao tay ý nghĩa cho bạn bè, người thân sau mỗi dịp ghé qua Bắc Ninh.

Cuối tuần, chúng tôi về thăm vùng Kinh Bắc cổ kính và quyết định lang thang một ngày ở mảnh đất làng Bùi để hiểu rõ ngọn nguồn của nó. Làng Bùi nằm bên bờ sông Đuống thơ mộng dần hiện ra trước mắt với con đường bêtông chạy thẳng tắp giữa cánh đồng. Mới vào đến đầu làng đã nghe mùi thơm của thính lan tỏa ngào ngạt khắp nơi như một nét đặc trưng chỉ thấy ở làng nem Bùi. Cuộc sống ấm no, sung túc của người dân, mà chủ yếu do nghề làm nem mang lại như hiển hiện ra trước mắt.

Sau nhiều lần hỏi đường chúng tôi cũng tìm được đến nhà nghệ nhân Nguyễn Văn Đối. Ông Đối năm nay đã gần 80 tuổi và là một trong số ít những nghệ nhân làm nem lâu năm hiện còn sống.

Sau nụ cười hồn hậu, chén nước chân quê chào đón những vị khách trẻ phương xa, ông Đối tự hào cho biết: “Nhà tôi làm nem từ ba đời nay. Nói về xuất xứ của nem Bùi thì phải nhắc đến ông cụ sinh ra tôi. Ngày trước, mỗi khi trong làng có cỗ bàn, các cụ thường thái nhỏ thịt mỡ sống và ăn với bánh đa. Sau lần đó ông cụ nhà tôi nghĩ ra cách ngâm gạo, rang lên, rồi xay nhỏ bằng cối xay để tạo ra thính trộn với thịt, dần món ăn được hoàn thiện và nem Bùi cũng ra đời từ đó".

Theo dòng thời gian, nem Bùi ngày càng được nhiều người biết đến và kinh tế nhiều hộ gia đình cũng phất lên nhờ làm nghề này.

Ra đời gần 100 năm, món ăn đặc sản vùng Kinh Bắc đã trải qua bao thăng trầm, đến hôm nay ông Đối tự hào tâm sự: “Ngoại trừ nem Phùng (Hà Tây cũ) có nét khá giống với nem Bùi, miền Nam, miền Trung hay chính vùng Bắc bộ này cũng không nơi đâu có nem Bùi như quê tôi”.

Chúng tôi ghé thăm cơ sở làm nem của gia đình anh chị Hà - Cương, một điểm làm nem Bùi lớn trong làng. Anh Cương cho biết gia đình đã làm nem khoảng 10 năm, mỗi ngày có thể làm khoảng 500 chiếc để giao ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương và một số hàng quán gần nhà.

Nem Bùi sử dụng trong ngày là ngon nhất, nếu bảo quản trong tủ lạnh thì được 2-3 ngày, nếu nem được đóng gói trong túi nilông sau đó hút chân không thì để được lâu hơn. So với thu nhập ở vùng nông thôn và so với những nghề khác thì nem Bùi đem lại nguồn lợi khá cao cho người làm nghề. Nhưng để làm ra những chiếc nem Bùi, người làm nghề cũng rất vất vả.

Để làm nem phải lấy nguyên phần hông con lợn. Phần thịt nạc và thịt mỡ để sống, chỉ riêng phần bì là luộc chín rồi thái nhỏ tất cả, nêm gia vị tỏi ớt, bột ngọt trộn đều với thính nóng, sau đó để chín thịt, tiếp đến nắm chặt nem thành quả nhỏ bọc trong lá chuối.

Ngày nào cũng phải dậy từ 2g-3g sáng để lấy thịt từ chợ về, làm liên tục đến khoảng 7g-8g. Làm xong phải đi giao hàng ngay, hiếm thấy gia đình nào làm nem vào buổi trưa và chiều trừ khi khách đặt hàng lấy ngay lúc đó.

Dọc trên con đường quốc lộ chạy từ Cầu Hồ - Thuận Thành đi Hải Dương đâu đâu cũng thấy biển hiệu nem Bùi bán buôn và bán lẻ, nhiều người mua xong bóc một cái mang vào quán bia ăn thử. Thật thú vị khi trong những ngày hè oi bức có được đôi ba cốc bia ngồi nhâm nhi với chiếc nem Bùi thơm ngon, ăn cùng lá sung, lá đinh lăng chấm tương ớt.

Một số người bán nem ở đây kể vài năm gần đây, một số người Việt sống ở nước ngoài khi có dịp về nước cũng tranh thủ mua nem Bùi mang về ăn và làm quà. Chúng tôi tạm biệt làng Bùi sau cái vẫy chào thân thiện của những người bán hàng cùng vài chiếc nem mang về Hà Nội. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, thương hiệu nem Bùi sẽ bay xa khắp nơi và sẽ nổi tiếng như bánh phu thê vậy.

- Theo NGUYỄN HẢO - VƯƠNG BÍCH (TTO)

Tuesday, May 29, 2012

Thăm làng mộc An Thành

Chúng tôi về làng An Thành (xã Minh Đức, Mỹ Hào, Hưng Yên) trong một ngày đầu hạ. Khác với mường tượng ban đầu, một làng quê bình dị hiện lên trong tiếng chạm trổ lách cách, tiếng nói cười từ những xưởng mộc.

< Chạm trổ hoa văn trên gỗ đòi hỏi sự khéo léo của đôi tay người thợ.

Vùng đất Bắc nổi danh với những ngôi làng mộc hàng trăm năm tuổi. Nhiều cái tên làng quê đã đi vào công nghiệp hóa và được coi là thương hiệu lớn như làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh), hay Đông Giao (Hải Dương).

Ít ai biết vùng đông bắc Hưng Yên cũng có làng An Thành - nơi được xem như một xưởng mộc tập thể, mỗi hộ gia đình là một khâu, một “nhịp” trước khi cho ra đời những sản phẩm đầy thần sắc.

Lớn lên từ mùi gỗ

Theo người dân làng An Thành, nghề mộc ở làng manh nha từ những năm cuối thế kỷ 19 khi nghề làm nông cụ (cày, bừa) được phát triển rộng rãi khắp vùng đông bắc Hải Hưng xưa. Ở làng An Thành chỉ có hai dòng họ chính là Nguyễn Văn và Phạm Đình. Khi nghề làm nông cụ không còn thịnh hành, những thợ tay nghề cao của hai dòng họ đã đi làm thuê ở các vùng xa. Sau đó, họ du nhập cách chạm con giống, đục bình hoa, pho tượng… và trở về truyền nghề cho cả dân làng.

< Con đường quê nhỏ nhắn, bình dị dẫn đến làng gỗ An Thành.

Ngày nay, đình làng An Thành vẫn lưu giữ pho tượng gỗ được chạm khắc từ hàng trăm năm với những họa tiết còn thô sơ, đơn giản. Đó được xem là những sản phẩm gỗ thủ công “đầu tay” của người làng, bắt đầu cho việc chuyển đổi từ nghề làm nông cụ sang nghề mộc mỹ nghệ.

< Làng An Thành không có nhiều cửa hàng trưng bày sản phẩm, những sản phẩm hoàn thiện như thế này sẽ được các chủ buôn tới tận nơi nhập hoặc đặt hàng từ trước.

Nhờ sự kiên trì tiếp thu và tìm ra nét riêng từ tinh hoa nghề mộc, với tình đoàn kết qua nhiều đời, người dân An Thành tự hào vì nghề thủ công này đã phát triển, là nguồn sống của bao thế hệ dân làng, trở thành nét văn hóa truyền thống đầy tự hào của vùng.

Làng mộc - xưởng mộc

Với người làng An Thành, nói nghề mộc là một nghề kiếm sống cũng đúng, mà là một “duyên nợ truyền đời” cũng phải. Lớp sau kế lớp trước, trẻ con làng cứ lớn lên trong mùi gỗ thơm, tiếng ru xen lẫn tiếng đục chạm lách cách, đủ tuổi thì bắt đầu học những việc nhỏ phụ trong xưởng. Người lớn trong làng thì coi nghề này như một mặc định, “một là học giỏi đi xa, hai là theo mãi nghề này mà thôi".

Gần như cả làng An Thành theo nghề mộc. Những nhà có điều kiện thì mở xưởng, còn lại thì đi làm thuê.

< Người thợ chăm chỉ đục đẽo thớ gỗ để tạo dáng cho sản phẩm.

Khác với nhiều làng gỗ dân dụng, sản phẩm của làng An Thành thiên về mỹ nghệ trưng bày như lục bình, tranh, tượng gỗ, trụ gỗ mỹ nghệ, và đặc biệt là con giống (những con vật như long phụng, nghê, hổ, lợn, chim… được tạo nên từ gỗ với sắc thái rất riêng).

Cả làng An Thành có đến vài chục xưởng mộc, nhưng được bao quát thành một xưởng mộc lớn. Những phiến gỗ được chuyển theo từng ngõ xóm đến các xưởng, mỗi xưởng một khâu, hoàn thiện để tạo nên “cái hồn” của mỗi sản phẩm.

< Ở An Thành, trẻ con lớn lên trong tiếng chạm khắc, trong mùi thơm của gỗ, nhiều em có năng khiếu đã xin theo học nghề và phụ giúp gia đình từ khi còn tuổi đi học.

“Mỗi sản phẩm của làng được làm qua rất nhiều bàn tay thợ, nó như một dây chuyền “chuyên môn hoá”. Ví dụ để tạo nên một pho tượng họa tiết đầy đủ phải cần một xưởng xẻ gỗ, một xưởng tạc gỗ, một xưởng đục chạm, và cuối cùng là việc hoàn thiện đầy nét tỉ mỉ" - ông Phạm Đình Kỳ, người chủ của xưởng xẻ gỗ lớn của làng, cho hay.

Sản xuất dây chuyền kéo theo chuyên môn hóa. Người thợ ở làng thường chỉ học nghề ở một công đoạn, và suốt tuổi nghề họ chỉ tập trung làm tốt công việc ấy. Dường như câu nói dân gian “một nghề thì sống, đống nghề thì chết” luôn được người làng An Thành tâm niệm qua bao thế hệ.

Và ngắm những sản phẩm tinh xảo nhiều đường nét phác lên từ đôi tay thoăn thoắt của những người thợ An Thành mới thấy hết nét tài hoa của người dân nơi đây. Từ những miếng gỗ thô sơ, không cần bản vẽ, chỉ bằng cách mường tượng, những sản phẩm có hồn với họa tiết sinh động được tạo nên từ những đôi tay nhỏ nhắn…

< Những chú heo gỗ độc đáo được tạo ra từ bàn tay người thợ làng An Thành.

“Rồng bay, cá lội, hoa nhành/ Nghề xưa hãy nhớ An Thành quê hương”, câu thơ vẫn được các thế hệ người làng nhắc nhau khi nói về nghề mộc của quê hương An Thành. Và nếu muốn chiêm ngưỡng những mảnh gỗ với bao thần sắc riêng, bạn có thể xuôi theo quốc lộ 5 Hà Nội đi Hải Phòng, khoảng 35km để về làng gỗ truyền thống An Thành.

- Theo TTO

Sunday, May 27, 2012

Ly kỳ như săn... nấm mối vùng Cửu Long

Người dân đi săn nấm mối phải dậy từ lúc trời còn khuya, xách đèn đi dò tìm khắp nơi trong vườn và “xí phần” – lấy 1, 2 tàu lá dừa phủ lên hay cắm một đoạn cây vào đó làm dấu hiệu để mọi người biết đây là nơi đã có chủ.

Mỗi năm, thời điểm từ khoảng mùng 5 tháng 5 âm lịch, vùng sông nước miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu vào mùa nấm mối. Thứ nấm trời cho này nếu ai đã từng thưởng thức, chắc khó mà quên được hương vị độc đáo của nó.

Mùa săn nấm mối

Khi xuất hiện những đám mưa nặng hạt kéo dài vài ngày thì trời chớm nắng – cũng là lúc nấm mối bắt đầu mọc. Mùa nấm mối kéo dài từ khoảng đầu tháng 5 đến nửa tháng 6 âm lịch hàng năm, rộ nhất vào đầu tháng 6.

Đây là loại nấm tự nhiên, con người không thể trồng được và thường xuất hiện gần những tổ mối đất trong vườn. Loại mối này làm tổ nơi đất cao ráo, có nhiều cây mục.

Khi trời mưa dầm kéo dài nhiều ngày, loại mối này tiết ra một chất men xung quanh tổ, đến khi trời nắng thì nấm từ những nơi này sẽ mọc lên thành từng đám, có khi kéo dài vài mét.

Biết được đặc điểm này, người dân đi săn nấm mối phải dậy từ lúc trời còn khuya, xách đèn đi dò tìm khắp nơi trong vườn. Có điều, nấm mối thường mọc lại hay mọc xung quanh nơi mà năm trước đã có nên dễ tìm. Nấm mối ngày đầu mọc chỉ nhỏ bằng hạt tiêu, đầu nhọn vừa nhú trên mặt đất, người dân gọi đó là “núm nứt đất”.

Nấm cỡ này chưa thể nhổ, nên người nào phát hiện sẽ “xí phần” – lấy 1, 2 tàu lá dừa phủ lên hay cắm một đoạn cây vào đó làm dấu hiệu để mọi người biết đây là nơi đã có chủ. Chứ không như phải mắc võng canh cây sưa.

Không tới hai ngày nấm đã nhô khỏi mặt đất, cao khoảng 3 – 4 cm nhưng nấm chưa nở. Đến hết ngày thứ hai nấm mới bắt đầu nở, đây là lúc thu hoạch tốt nhất và dùng làm thức ăn ngon nhất. Đặc biệt, nhổ nấm không được dùng dao hay bất cứ thứ gì bằng kim loại, vì người dân cho rằng, nấm nghe hơi dao sắt mùa sau sẽ lặn mất, không mọc nữa, nên những chỗ đất cứng dùng que tre, que gỗ để bới gốc nhổ nấm.

Đi săn nấm, hái nấm có nhiều chuyện ly kỳ, có người kể rằng: Ai “nặng vía” không thể nào tìm được nấm mối, nếu có đi ngang chỉ có giẫm lên mà thôi, còn người “nhẹ vía” có thể tìm được rất nhiều. Hoặc những người nào mà không ăn được nấm mối có thể đánh hơi được mùi nơi có nấm mọc.

Món ngon của trời

Nấm mối hái về chỉ cần ngâm nước muối và rửa sạch đất bám trên nấm bằng vòi nước đang chảy, rửa phải nhẹ tay tránh không để nấm bị vỡ hay bị nhào sẽ mất chất ngọt. Loại ngon nhất là nấm vừa nở vào buổi sáng – rất tươi, thân nấm săn chắc; loại lý tưởng nhất để chế biến các món ăn.

Thứ nấm không trồng được nên nhiều khi có tiền cũng khó mà mua. Nấm mối được xem là đặc sản quý, hiếm của vùng quê. Với vị ngọt dịu tự nhiên, mùi thơm đặc trưng, nấm mối làm được nhiều món ngon, bổ dưỡng như, xào mỡ, um lá cách, làm nhân bánh xèo, nấu canh với các loại rau…

Mỗi năm vào tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch) ở vùng nông thôn, gia đình thường sum họp dòng họ, con cháu lại đổ bánh xèo ăn chơi. Nhất là thời điểm này đã vào mùa nấm mối. Bánh xèo nhân tôm đất, đậu xanh, nấm mối thơm ngon đáo để; ăn cùng rau vườn nhà, ai đã thưởng một lần sẽ nhớ mãi. Dân “lai rai” coi nấm mối là thượng hạng, chỉ cần xào với mỡ để giữ nguyên vị ngọt và mùi thơm của nấm mà không cần phải thêm thịt, cá…

Nấm vừa chín cho hành vào nhắc xuống ngay, rắc thêm tiêu vậy là hả hê nhâm nhi món trời cho này. Ngoài ra, nấm mối còn được nấu cháo cá, cháo thịt, cháo gà… Nhưng ngon nhất là cháo cóc nấu nấm mối.

Buổi chiều quê, mưa lất phất, cóc phóc ra kiếm ăn. Bắt cóc, làm thịt thật sạch, bỏ hết toàn bộ nội tạng chỉ lấy phần thịt bằm nhuyễn đem nấu cháo thật nhừ rồi cho nấm mối vào. Theo dân gian, ăn cháo cóc nấm mối lúc còn nóng với hành, tiêu là món có nhiều vị thuốc, lợi cho sức khoẻ, trẻ con ăn sẽ tránh được bệnh còi xương, thanh nhiệt; còn người lớn ăn thì… sung.

Ngoài ra, món canh tập tàng nấu với nhiều loại rau ngót, rau má, rau dền, lá cách… trong vườn cùng nấm mối thì thôi khỏi phải chê.

- Theo SGTT, internet

Sunday, May 20, 2012

Bún Song Thằn

An Thái (Nhơn Phúc-An Nhơn-Bịnh Định) không chỉ là làng võ nổi tiếng với những câu ca lưu truyền như Roi Thuận Truyền, quyền An Thái...; mà còn có những món ăn độc đáo, đặc trưng Bình Định. Trong đó phải kể đến là bún Song Thằn... Nón ngựa Gò Găng/Bún Song Thằn An Thái.

< Cháu nội bà Hương, anh Võ Thanh Sơn đang phơi bún Song Thằn trên bãi cát sông Côn.

Đây là một loại bún được sản xuất từ nguyên liệu chính là hạt đậu xanh, sau khi qua một số công đoạn chế biến thủ công và bán thủ công, sản phẩm cuối cùng là những sợi bún trắng trong và có hương vị thơm ngon. Nếu có dịp về thăm một cơ sở sản xuất bún Song Thằn trên vùng đất An Thái (An Nhơn) - nơi mệnh danh là rốn võ trên vùng đất Võ Bình Định để tận mắt nghề truyền thống này quả là điều thú vị.

< Tuy đã 85 tuổi nhưng bà Hương vẫn còn khỏe mạnh, bà đang đảo bột bún Song Thần.

Theo bà Lý Thị Hương, 85 tuổi và người làm bún Song Thằn gia truyền lâu nhất hiện nay ở An Thái, thì nghề làm bún này được truyền từ ông tổ nghề là Hồ Văn Mơi, sau đó qua mẹ của bà Hương là bà Hồ Thị Vịnh. Bà Vịnh có hai đời chồng (chồng trước là người Việt bị mất) chồng sau là ông Lý Phát (người Hoa). Ông Lý Phát muốn bà Vịnh đem nghề bún Song Thằn về Trung Quốc nhưng bà đã không đi mà ở lại giữ nghề, ông Phát dẫn người con gái đầu về Trung Quốc.

< Bột đậu xanh xay mịn-nguyên liệu chính làm bún Song Thằn.

Hiện nay ở An Thái bún Song Thằn thì có 4 lò, đó là Hưng Đắt, Hương Huệ và Phúc Lộc (đều là con của bà Lý Thị Hương) và lò bún Phước Hải Sanh. Trung bình một ngày một cơ sở sản xuất được khoảng 50kg bún Song Thằn. Giá bán hiện tại cơ sở là 170.000/kg. Bún Song Thằn không chỉ công phu ở khâu làm, mà đến cả lúc mang phơi.

Bún Song Thằn phải được phơi trên bãi cát dọc sông Côn dưới nắng nóng và gió nhẹ. Thời tiết lý tưởng nhất để làm bún Song Thằn là từ tháng 3 đến tháng 6. Dường như chỉ có nắng gió sông Côn mới làm cho bún Song Thằn được thăng hoa như thế từ đậu xanh qua bao nhiêu giai đoạn để có được những miếng bún Song Thằn trắng, sáng và thơm ngon.

< Sợi bún được khoanh tròn và phơi nắng.

Bà Hương theo giúp mẹ từ lúc 13 tuổi, đến năm 30 tuổi bà được mẹ truyền nghề. Một điều thú vị là nhiều năm trước, bà Hương đã đặt từ Sài Gòn làm một bản khắc gỗ để in nhãn hiệu bún Song Thần, trong đó bà tự nghĩ ý tưởng vẽ hình 5 chú bé đang ăn tô bột đậu xanh, cậu nào cũng mạnh khỏe, hồng hào. Bà giải thích thêm rằng bún Song Thần làm từ bột đậu xanh cũng ngon và bổ như thế.

Bà Hương thích gọi tên loại bún này là Song Thần. Nhưng theo ông Hưng con bà Hương thì muốn lấy lại tên có từ thời ông Hồ Văn Mơi nên đăng ký nhãn mác trên bao bì là bún Song Thần. Tuy nhiên hình ảnh năm cậu bé đang ăn bột đậu xanh vẫn còn trên bao bì hiện nay. Bà Hương rất an tâm với nghề này vì có 2 người cháu nội rất thạo nghề là anh Võ Minh Thành và anh Võ Thành Sơn.

An Thái không những là một làng võ nổi tiếng của quê hương Bình Định gắn với ba anh em nhà Tây Sơn, những ngôi chùa cổ có từ thời lập làng, như chùa Bà với lễ hội Đỗ tranh tài võ thuật của những võ sĩ trong vùng hấp dẫn một thời của vùng đất võ mà còn những sản phẩm như bún Song Thần. Mong sao có một sự kết hợp thành một sản phẩm du lịch hấp dẫn để đưa những sản phẩm của quê hương An Thái Bình Định đến với mọi người, vừa nâng cao đời sống cho bà con vừa góp phần lưu giữ những giá trị truyền thống.

- Tổng hợp từ Laodong, báo Binhdinh, internet

Tuesday, May 15, 2012

Bồng bềnh bè nổi bãi Dừa

Mới đầu hè mà trời nắng như đổ lửa. Chúng tôi tìm đến bãi Dừa thuộc xã Nghĩa Hòa (Tư Nghĩa) để trú nắng. Ngồi trên bè nổi bồng bềnh trên dòng sông Vực Hồng cảm thấy thật mát mẻ, khoan khoái giữa trưa nắng gắt...

< Lên bè nổi ở bãi Dừa.

Bè nổi ở bãi dừa cách TP.Quảng Ngãi chỉ chừng 9km về hướng đông.

Ở nơi đây, gió từ phía biển đẩy vào, cộng hơi nước từ sông bao trùm lên các bè nổi giữa trưa hè mát rượi. Du khách thử một lần đặt chân đến, ngồi bồng bềnh trên các bè nổi nếp mình dưới bóng dừa xanh, thưởng thức các món hải sản vừa mới vớt từ sông, biển lên chế biến, sẽ khó quên với cảnh thiên nhiên, sông nước, êm đềm nơi đây...

Thu hút khách du lịch

"Quê tôi tận miền sơn cước, quen hưởng không khí mát lành từ rừng xanh, từ những cây tỏa bóng. Giờ, sống và làm việc giữa thành phố này, mấy ngày qua, nóng quá phải tìm về chốn sông nước để tránh nắng". -  Một du khách tên Duy ở Ba Tơ cùng những người bạn đang ngồi đong đưa trên bè nổi nói.

Khoảng 7 giờ sáng, mặt trời đã chói lọi đằng đông. Du khách lần lượt đổ về. Dọc dài bến sông Vực Hồng dưới những tán dừa có nhiều quán kinh doanh bè nổi. Những tấm sàn làm bằng tre được kết thành trãi dài từ bến đến nhà nổi giữa dòng sông. Du khách khoan thai bước lên theo ý thích của mình mà không có bất cứ bàn tay kinh doanh nào chèo kéo.

Du khách thỏa thích tận hưởng không khí mát lành, ngắm cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt đời thường, như đánh cá, bà con sục khí hồ nuôi tôm... ngay bên cạnh.

Ở phía đầu nguồn, những em thơ bơi lội tung tóe nước. Bức tranh  thủy mặc, gần gũi, bình dị ở vùng quê sông nước nơi này như gợi cho chúng ta bắt gặp ở đâu đó bóng hình tuổi thơ của chính mình, của ông bà, cha mẹ người thân một thời.

Mặt trời lên cao, nắng đổ vàng dưới dòng sông, cũng là lúc mùi thơm "nức" mũi đâu đó tỏa ra. Du khách bước vào trong bè nổi mới bắt gặp những nữ "tiếp viên" lịch thiệp chào hỏi chọn món. Những món ăn dân dã được chế biến từ các loại cá quen thuộc vừa mới vớt lên ở vùng nước "chè hai", ở các đìa tôm bên cạnh như cá đối, cá móm, cá dìa... hay tôm thẻ chân trắng. Lai rai vài món, vài lon bia hay lon nước, rồi ăn chén cháo sò quyện với gia vị hành tươi thơm lừng, đậm đà mùi vị quê hương đến lạ.

Ngồi trên bè nổi như đang bồng bềnh giữa dòng sông mà chúng ta không bao giờ sợ ướt. Bởi, bè làm thật kiên cố. Nguyên liệu bằng tre. Muốn làm bè phải tốn khá nhiều tre, tùy thuộc vào bè to hay nhỏ. Kỹ thuật làm bè phải xếp tre thành hai lớp ngang dọc rồi gắn lốp xe bên dưới. Phía trên phủ lá dừa nước hay tranh, lá mía tùy gia chủ.

Chủ quán Yến Mi cho hay: "Lúc đầu chỉ làm một bè kéo từ bờ dài ra ngoài sông khoảng 5 - 6 mét. Khách thập phương đến Thu Xà đốt nén hương ở Chùa Ông hay viếng mộ Bích Khê rồi rảo bước ghé đến đây du ngoạn. Thế rồi, khách đến ngày càng đông nên mở thêm 2 bè nữa mà vẫn không đón hết khách".

Bình quân mỗi ngày chị Mi bán được từ 30 - 40 kg cá, tôm theo yêu cầu của khách. Mấy ngày qua trời nắng nóng, lượng khách đổ về đông nghẹt. Bè thì có hạn nên du khách đứng ven bờ sông trú nắng, ngắm cảnh thiên nhiên rồi ra về trong sự tiếc nuối được một lần đặt chân lên bè nổi.

Tận dụng các cửa biển

Bè nổi bãi Dừa ở Nghĩa Hòa được dựng lên thuận lợi là nhờ lưu vực dòng sông sâu, rộng kết hợp với sóng biển bổ nhẹ vào cửa biển tạo nên sự đối lập giữa sông, biển nên sông thật bình lặng, êm đềm. Không biết bè nổi được thả trên dòng sông Vực Hồng có từ bao giờ. Nhưng theo những người dân nơi đây thì có khoảng 5-6 năm trở lại. Lúc đầu chỉ có 1- 2 bè, đáp ứng cho khoảng 20 -30 khách du lịch từ nơi xa đến. Nhưng nay đã lên đến hàng chục bè được thả dọc ven sông Vực Hồng.

Ngồi trên bè nổi du khách tận hưởng không khí mát lành mà không cần bất cứ máy lạnh hay máy quạt gì. Gió từ phía biển, từ hơi nước còn trong lành ở dòng sông bốc lên. Nơi đây, không có nhạc cổ điển, nhạc trẻ, trữ tình... nhưng du khách vẫn cảm nhận được âm thanh du dương từ sóng biển bủa nhẹ rì rào vào mép bờ.

Cảnh sông nước thật yên tịnh, nhưng không phải tách hẳn ra cuộc sống thường nhật. Bởi, trong không gian lắng đọng này là dịp để du khách ngẫm nghiệm lại việc đã làm và định hướng sắp đến.

Ông Nguyễn Chí Thanh - Phó Chủ tịch UBND xã Nghĩa Hòa, cho biết: Sau khi công trình chống sạt lở kè Hòa - Hà xây dựng hoàn thành xã tận dụng lòng sông này mở mô hình dịch vụ bè nổi trên cơ sở đã có các bè của tư nhân phục vụ du khách. Đồng thời, bảo vệ cảnh quan nguyên vẹn, môi trường trong lành đảm bảo du khách thưởng ngoạn trong những ngày hè, ngày xuân.

Điểm bè nổi bãi Dừa gợi mở cho ngành chức năng Quảng Ngãi tận dụng các cửa biển để xây dựng mô hình bè nổi thu hút khách du lịch, tạo việc làm cho người dân địa phương, góp phần xây dựng nông thôn mới hiện nay.

- Theo Quảng Ngãi Online, internet

Saturday, May 5, 2012

Về Định Yên xem dệt chiếu

Xã Định Yên với nghề dệt chiếu lâu đời ở huyện Lấp Vò - Đồng Tháp còn hấp dẫn bởi việc họp chợ vào ban đêm nên còn gọi là chợ ma hay chợ âm phủ.

< Dưới bến, những chiếc ghe bầu chở đầy ắp lác, nguyên liệu chính để dệt nên tấm chiếu.

Sông nước Miền Tây chằng chịt xen lẫn vườn cây ăn trái trĩu quả, những cánh đồng lúa bạt ngàn mơn man; không chỉ đẹp bởi phong cảnh hữu tình mà còn đẹp bởi làng nghề truyền thống mà bà con vẫn gìn giữ và phát triển. Xã Định Yên với nghề dệt chiếu lâu đời ở huyện Lấp Vò – Đồng Tháp còn hấp dẫn bởi việc họp chợ vào ban đêm nên còn gọi là chợ ma hay chợ âm phủ.

< Lác được chuyển lên bờ về các xưởng sản xuất.

Quá nửa khuya, gió từ bến thuyền se se lạnh, ánh tù mù “vàng ệch” hắt lên khi mờ khi tỏ, bóng người thấp thoáng trải dài trên trảng cỏ đẫm sương. Đứng bên đây bờ, tiếng lao xao vọng về lẫn trong tiếng xào xạc lá rung như mời như gọi. Ngôi chợ đó ngày nay đã vắng bóng nhưng vẫn khắc sâu trong tâm trí người dân xứ chiếu.

< Lác sau khi nhuộm màu - phơi khô chuẩn bị dệt.

Chợ họp lúc khuya lắc khuya lơ cũng có lý do của nó, ban ngày bà con bận bịu việc đồng áng hoặc miệt mài dệt chiếu đến tối mới rảnh rỗi và có chiếu bán.

< Cuộn trân - nguyên liệu thứ hai để dệt chiếu.

Thương thuyền ghe lái cũng thế, ban ngày buôn bán nơi khác tối về buông sào neo lại để mua mà việc này cũng tùy thuộc theo con nước lên xuống nữa.

< Kho nguyên vật liệu và thành phẩm.

Khi màn đêm buông xuống, cơm nước xong, chiếu trên vai, tay bó đuốc, không thì ngọn đèn dầu lạc, đèn mù u bánh ú tong tả xuống bến, bán bán mua mua.

< Cặm cụi từng cọng lác.

Đặc biệt việc mua bán chỉ diễn ra độ 2 giờ và cũng khác những nơi khác, đó là người mua thì tìm một chỗ ngồi, người bán thì ôm chiếu đi qua đi lại rao hàng nói giá. Việc mua bán diễn ra nhanh chóng, người mua mặc cả cù cưa đôi câu, người bán thì: “Thôi bán luôn rồi dzìa nghỉ sớm”.

< Bên khung dệt, chiếc chiếu hoa dần thành hình.

Nguyên liệu chính làm chiếu là lác và trân. Cọng lác (cói) dài 1,6 – 2 mét màu trắng ngà hoặc nhuộm màu đỏ, vàng, xanh, tím…

< Chiếu thành phẩm với các hoa văn trang nhã.

Sợi trân làm từ cây đai (bố) sau khi lột vỏ cạo sạch phơi khô rồi se nhỏ, quấn thành từng cuộn dùng để dệt chiếu. Nghề này tưởng dễ nhưng cũng phải có bí quyết nghề và kinh nghiệm.

< Sau công đoạn dệt đem phơi cho ráo.

Để tạo nên tấm chiếu chắc bền, hoa văn trang nhã không phải việc giản đơn, phải lựa chọn kỹ từ khâu mua lác đến công đọan nhuộm màu sao cho bền, không dính vào quần áo người sử dụng.

< Chở chiếu đi bán – phía xa thương lái í ới gọi mua.

Người dệt chiếu cũng phải sáng tạo, phối hợp màu sắc hài hòa, tạo nên những chiếc chiếu in hình bông trái, ô cờ, vảy ốc, trà niên đã làm nên tên tuổi chiếc chiếu Định Yên tự bấy lâu nay.

< Soi đèn lựa chọn thật kỹ rồi mới ra giá.

Xưa công việc dệt chiếu thô sơ, dệt tay cực nhọc trăm bề, nay phần lớn đã chuyển sang dệt bằng máy, nhanh hơn, bền chặt hơn, thu nhập của bà con cũng cao hơn và sản phẩm chiếu đã xuất sang các thị trường trong khu vực như Hàn Quốc, Thái Lan, Campuchia và ngày càng vươn xa hơn nữa.

< Chiếu Định Yên sẽ được đi đến các vùng bằng những chiếc ghe bầu.

Nghề dệt chiếu qua bao thăng trầm nhưng bà con vẫn gìn giữ và ngày càng phát triển. Cho dù chăn – ra – gối – nệm thơm thơ nhưng mùi ngai ngái nồng nàn của cỏ cây, của hương đồng gió nội vẫn quyện trong mỗi chiếc chiếu như tấm lòng đôn hậu của bà con làng chiếu Định Yên.

- Theo Petrotimes

Friday, April 27, 2012

Đến Tam Nông ăn khô cá lóc

Về đến rồi mới biết, người dân ở vùng phèn chua thuộc các xã: Phú Thọ, Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thành A, Tân Công Sính… đã bén duyên với con cá lóc. Dù cũng trải qua nhiều phen lận đận với giống cá này, nhưng nhiều nông dân ở đây vẫn không bỏ nghề nuôi cá lóc. Vì chính nhờ cá lóc mà cuộc sống của họ ngày càng khấm khá hơn.

< Khô cá lóc Tam Nông.

Huyện Tam Nông nằm ở phía Bắc tỉnh Đồng Tháp, giáp huyện Tân Hồng và Hồng Ngự, phía Nam là huyện Thanh Bình, phía Đông giáp tỉnh Long An và huyện Tháp Mười, phía Tây là con sông Tiền làm ranh giới với An Giang.

Ở xã Phú Thọ, có ông Nguyễn Văn Dính mà người ta thường gọi là “vua cá lóc”, bởi ông là người đầu tiên khai sinh nghề nuôi cá lóc ở Đồng Tháp Mười. Anh Nguyễn Sỹ Điền, con trai thứ sáu của ông Dính kể, ban đầu, anh cũng như những hộ di dân khác, được Nhà nước cấp 3 ha đất. Vợ chồng mừng rỡ, gom góp tiền mua lúa giống gieo sạ. Đất phèn, lại gặp hạn nặng, lúa chỉ sống được hơn tháng, rồi khô héo dần. Cuộc sống đã nghèo lại càng nghèo thêm.

Nhiều hộ bỏ ra đi, riêng anh một mực bám trụ, quyết tâm chinh phục vùng đất khó. Anh tiếp tục tìm tòi những mô hình làm ăn mới. Đến những năm 1990, công cuộc khai phá Đồng Tháp Mười bắt đầu có hiệu quả, thấy người dân khắp nơi về Tam Nông sinh sống ngày càng đông, nguồn cá đồng tự nhiên bị khai thác cạn kiệt dần, anh nảy sinh ý định nuôi cá lóc đồng.

Thông thường, cứ đến tháng 4, tháng 5 âm lịch, mưa xuống thì cá lóc mẹ sinh sản rất nhiều. Thế là, anh đi vớt cá con (cá ròng ròng) đem về nuôi. Đến nay, gia đình anh có một trang trại gần 2 ha mặt nước, chuyên nuôi cá lóc thâm canh. Bình quân mỗi năm trang trại của anh Sỹ Điền cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh hàng trăm tấn cá lóc thương phẩm, thu nhập cả tỷ đồng.

Thấy gia đình anh Nguyễn Sỹ Điền nuôi cá lóc đạt hiệu quả cao, nhiều hộ chung quanh bắt đầu xẻ mương, đào ao chuyển sang nuôi cá lóc. Nhiều người ở Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thành A, Tân Công Sính, kể cả Cà Mau, An Giang, Kiên Giang… cũng tìm đến học hỏi mô hình nuôi cá lóc của anh.

Tại xã Phú Thọ, ngoài nghề ương cá lóc giống còn có nghề làm khô cá lóc rất nổi tiếng. Cơ sở sản xuất khô cá lóc của chị Nguyễn Thị Tiền ở ấp A, xã Phú Thọ, là một trong những cơ sở lớn và lâu năm ở Tam Nông.
Sản phẩm khô cá lóc ở Tam Nông có hương vị đặc trưng rất riêng và đây cũng là bí quyết gia truyền… Hầu hết những sản phẩm khô cá lóc ở đây đều được làm thủ công và phơi dưới ánh nắng mặt trời. Sản phẩm làm ra được thị trường rất ưa chuộng, có lẽ cũng nhờ cái duyên của vùng đất Tam Nông.

Ngoài ra, Tam Nông cũng rất nổi tiếng với mắm cá lóc được nhiều người phương xa ưa thích. Nhà văn Đoàn Giỏi, nguyên quán ở Tiền Giang, khi xa cách quê hương Nam Bộ, tập kết ra Bắc, nhớ tha thiết món mắm lóc trứ danh, đã chuyển lời qua tác phẩm “Đất rừng phương Nam”.

Thử nghe một đoạn ông rao hàng: “… Nam Bộ ai mà không biết ăn mắm. Từ những thị tứ đông đúc, đến các nơi hẻo lánh xa xôi, bất cứ chợ lớn, chợ nhỏ nào cũng đều có bán mắm. Mà mắm lóc trứ danh lừng lẫy từ xưa nổi tiếng khắp Nam Kỳ lục tỉnh là mắm Đồng Tháp Mười và Long Xuyên”.

- Theo Trần Trọng Triết (Cà Mau Online), internet

Saturday, April 14, 2012

Chơi vơi nghề đáy hàng khơi

Làng đáy hàng khơi ở Rạch Gốc, Tân Ân, huyện Ngọc Hiển có sáu lô, mỗi lô 70 miệng đáy. Còn ở Rạch Tàu, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển có đến 3.000 miệng đáy.

Có người làm giàu từ nghề đáy hàng khơi như ông Hồng Văn Hoàng (Bảy Hoàng), ở ấp Kiến Vàng, xã Tân An, huyện Ngọc Hiển. Hiện nay, cả nhà ông có 35 miệng đáy, phải thuê bảy bạn chòi, hàng chục bạn đi tàu và vợ con của họ để vá lưới, lựa tôm cá...

Bám víu vào cột đáy giăng giăng là những chiếc chòi cheo leo như tổ chim, nơi sinh sống của bạn chòi ngoài biển khơi.

Luật ở đáy hàng khơi

Chủ đáy hàng khơi tuyệt đối không cho đàn bà con gái xuống tàu. Ông Sáu Quảng – chủ đáy hàng khơi ở Cái Đôi Vàm nói để tôi hiểu rằng xuống tàu ra đáy hàng khơi có “luật”. “Chú muốn thì cứ đi, sợ mệt chứ không chết chóc gì đâu. Lúc này sóng gió dữ lắm, gió tốc mái chòi, sóng cuốn trôi lưới do ảnh hưởng bão”, ông nói.

Chiếc ghe nhỏ, chừng 30 tấn, hướng ra cửa biển Cái Đôi Vàm. Tôi muốn tận mắt thấy ngư dân làm nghề đáy hàng khơi, đổ đục. Ra khỏi cửa biển Cái Đôi Vàm, con tàu trở nên bé nhỏ, lao xuống, nổi lên như trò chơi của sóng biển. Gần hai tiếng đồng hồ, tàu mới đến được giàn đáy hàng khơi cách bờ từ 12 – 20 hải lý, ở giáp ranh vùng nước đục và trong. Tuỳ vào dòng nước chảy, mỗi giàn đáy hàng khơi thường giăng liền kề vài chục miệng đáy, miệng đáy rộng chừng 50m.

Đáy hàng khơi có thể khai thác quanh năm, nhưng mỗi năm có hai vụ chính: mùa nam từ tháng 3 đến tháng 6, mùa chướng từ tháng 9 đến tháng chạp âm lịch. Tàu từ đất liền ra giàn đáy hàng khơi kéo lưới bắt tôm cá từ chạng vạng tối hôm trước đến hừng đông lại quay về bến.

Đời bạn chòi

Ngư dân Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy hàng khơi ở các cửa biển Cái Đôi Vàm – Phú Tân, Rạch Gốc, xã Tân Ân, Rạch Tàu, xã Đất Mũi – Ngọc Hiển… hình thành làng đáy hàng khơi ven biển. Có người làm chủ hàng chục, hàng trăm miệng đáy. Ngư phủ làm mướn gọi là “bạn”, đi theo tàu ra biển đóng đáy gọi là “bạn tàu”, ngư phủ làm trên biển gọi là “bạn chòi”. Ở vùng biển Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy nên có rất nhiều bạn chòi trông coi đáy hàng khơi. Mùa chướng, họ chịu đựng sóng gió lồng lộng; mùa gió tây nam, họ phải chống chọi với mưa bão.

Tôi ngước nhìn lên cao, chừng 10m, một chòi lá nho nhỏ như tổ chim ôm lấy cây cột đáy, gió xô lắc lư, đu đưa theo sóng gió, vách lá te tua. Từ chòi, hai khuôn mặt đen cháy, tóc tai bù xù, thả hai sợi dây to cỡ ngón chân cái xuống tàu. Muốn lên chòi phải ngồi vô chiếc cần xé, cầm hai cọng dây nương theo để bạn chòi kéo lên. Tôi cảm nhận bàn tay chai cứng, ngón tay như gọng kềm của bạn chòi khi họ kéo tôi lên.

Căn chòi nhỏ hẹp chỉ đủ hai người ngồi. Tôi ngoái nhìn xuống mặt biển xanh ngắt, choáng váng mặt mày. Hú hồn hú vía, nếu lỡ thủng chiếc cần xé hoặc đứt dây chắc trôi theo nước biển! Vào con nước, bạn chòi phải ở ròng rã ngoài khơi cả tuần đến mười ngày mới được vô bờ thăm vợ con. Sum họp gia đình vài ngày giữa hai con nước, rồi lại quay ra chòi để làm bạn với biển khơi.

Anh Thạch Sơl và Trần Văn Mẫn sống trong căn chòi gồm một bếp lò nấu củi, hai can nước ngọt, bao gạo, thùng mì, chén bát đựng trong rổ nhựa, hai cái võng mắc cặp vách. Quần áo thì mỗi người một bộ để mặc khi vào bờ, còn thì họ chỉ độc chiếc quần đùi. Tất cả vật dụng đều có một sợi dây cột vào đâu đó, gió có thổi văng thì còn dính lại.

Bật lửa được giữ kỹ nhất, gắn vào khối ximăng, có cái khoen để cột dây. Vật đáng ra bất ly thân là chiếc áo phao thì chẳng thấy anh nào mặc, kể cả khi di chuyển chơi vơi trên đòn gượng nối hai trụ đáy. Anh Trần Văn Mẫn làm nghề bạn chòi đã 11 năm, nói: “Áo phao vướng víu, khó khăn đi lại. Nếu lỡ rơi xuống biển thì người ở trên thảy phao, quăng dây. Nếu không thì anh em tụi tui dư sức bơi vô giàn đáy gần đây!”

Bạn chòi Thạch Sơl cười rất tươi, hàm răng ám khói thuốc lá, giải thích vì sao ai cũng phải thủ một con dao bên mình: “Anh em ở trên chòi, không may rơi xuống biển, nước đạp trôi vào đục đáy (lưới đáy), phải có dao rạch lưới để thoát thân!” Anh cho hay mùa gió chướng là mùa thu nhập chính của bạn chòi.

Con nước nào trúng thì được 1 – 2 triệu đồng, ít thì trên dưới 500.000 đồng. Nhưng cũng lắm khi kéo đáy lên chẳng có gì, buồn chết được. Có những lúc vợ đau con ốm, không được vào bờ phải liên hệ với chủ hàng đáy qua máy bộ đàm, vay tiền lo thuốc thang chờ khi mùa chướng làm trừ nợ.

Cực vậy, nên bạn chòi hầu hết là trai tráng tứ xứ trôi dạt về đây dấn thân với nghề biển, phần lớn có tánh cần cù, chịu khó và ưa mạo hiểm. Anh Nguyễn Văn Lùn, 31 tuổi, làm bạn chòi từ năm 15 tuổi, kể: “Ở chòi tưởng rảnh chớ làm suốt ngày đêm. Sáng sớm lo nấu bữa cơm trần ai vì gió tắt bếp. Ngả lưng chút xíu lại chuẩn bị đóng đáy. Suốt đêm gần như thức trắng để phạch dạo cho tàu đến đổ đục. Tàu quay về đất liền mình phải giặt đáy, phơi khô. Hết miệng đáy này sang miệng đáy khác”.

Cực, nhưng bù lại bạn chòi có quyền chọn và hưởng toàn bộ sản phẩm thu được một trong năm miệng đáy mà người chủ của họ đã đầu tư. Dù vậy, nhiều ông chủ đáy hàng khơi vẫn giàu sụ.

Làng bạn chòi chờ chồng

Anh Trần Lê Út, phó chủ tịch UBND thị trấn Cái Đôi Vàm – Phú Tân, cho biết: thị trấn Cái Đôi Vàm có tới 60 hộ làm nghề đáy hàng khơi, mỗi hộ thuê 10 – 30 bạn. Hầu hết bạn chòi sống kham khổ. Thậm chí nhiều người phải bỏ mạng oan uổng ngoài biển vì nghề này. Sau cơn bão Linda 1997, bạn chòi giỏi còn không mấy người.
Chiếc ghe chở tôi cùng 20 bạn chòi trở về, cập bến. Hàng chục phụ nữ cùng mấy đứa nhỏ tay thúng, tay rổ đứng chờ sẵn từ lúc nào.

Chị Diệp, vợ anh Thạch Văn Thống, vừa thấy chồng bước xuống đã vây lấy mà không màng tới phần cá tôm được chia. Vợ anh Hai Chiểu nói: “Ngày nào chị em tụi tui cũng ngóng ra biển chờ mấy ổng”. Lẫn trong số những phụ nữ ấy, có nhiều người không phải đến chia phần mà đến để nhặt cá thuê hay mua lại ra chợ bán kiếm tiền. Gương mặt họ buồn hiu hắt, nhiều goá phụ quay mặt giấu những giọt nước mắt khi chứng kiến cảnh vợ con người khác vui mừng đón chồng.

Nghề đáy hàng khơi là vậy, lắm lúc biển bao dung mang lại cơm no áo ấm cho họ, nhưng đôi khi biển cũng giận dữ lấy lại những gì đã ban phát và cả mạng người.

- Theo Langviet và nhiều nguồn ảnh khác

Friday, April 13, 2012

Miếu tổ nghề Yến ở Hội An.

Cù lao Chàm là nơi duy nhất của tỉnh Quảng Nam có loài chim Yến hàng - Collocalia Fuciphaga Genmaini Oustalet, thuộc phân giống Yến hông xám (Swiftlets), giống Collocalia, họ Apodidac, bộ Yến Apdiformes. Chim Yến có vóc dáng chỉ nhỏ bằng chim sẻ, hông và bụng màu xám, toàn thân nâu đen; cánh dài ( 115-125mm), vút nhọn, bay rất khoẻ, đuôi ngắn, chẻ đôi; mỏ ngắn, dẹp, có thể há rất rộng.

< Hang Yến tại cù lao Chàm.

Hàng năm, vào cuối tháng 11 âm lịch, yến bắt đầu làm tổ theo một cách rất độc đáo: yến nhả nước bọt thành những dãi trắng lên những vách đá cheo leo của các hang động trên đảo. Dãi yến mới nhả ra có màu trắng phớt hồng, gặp gió quánh lại, chuyển thành màu trắng đục.

Tổ chim yến thường được gọi là yến sào hay tai yến. Yến đẻ trứng, ấp trứng và nuôi cho đến khi chim con đủ sức tự bay đi kiếm mồi. Tổ yến có hàm lượng dinh dưỡng rất cao, chiếm từ 36-52% protein và là một nguồn dược liệu rất quý.

Tổ yến giúp tăng sức đề kháng cho cơ thể, bổ khí huyết, tráng dương, ổn định thần kinh, chống lão hoá, làm đẹp nước da và có thể ngăn ngừa, thậm chí chữa được nhiều loại bệnh nan y như lao phổi, hen suyễn, viêm xương...Chính vì vậy, yến sào là loại hàng hoá hiếm quý, đắt giá trên thị trường từ xưa đến nay.

Nhiều nguồn tư liệu cho biết, từ trước thế kỷ 18, người Trung Quốc đã biết đến giá trị của yến sào. Một số nước ở Đông Nam Á, trong đó có người Chàm cũng đã biết khai thác nguồn đặc sản này trên các hang đảo nằm ở vùng biển quốc gia...

Ở Hội An, một ông lão họ Trần tình cờ phát hiện ra tổ yến sau đó tổ chức khai thác và nộp thuế. Vì thế, các chúa Nguyễn (từ thế kỷ 17) đã cho lập “Đội Thanh Châu”, thực chất là giao cho dân làng Thanh Châu (Hội An) khai thác yến sào ở vùng đảo Cù lao Chàm và nộp thuế hàng năm cho nhà nước. Sau này, mở rộng vào các tỉnh Bình Định, Khánh Hòa.

< Thu hoạch yến sao trong hang.

Khai thác yến sào phải leo lên các vách đá cheo leo, hiểm trở, bên dưới là mặt nước biển ăn sâu vào hang sâu, nếu sơ sẩy, người thợ khai thác khó an toàn tính mạng. Ở Cù lao Chàm, chim yến thường làm tổ trong các hang ở Hòn Khô (mẹ), Hòn Lao, Hòn Tai...Việc khai thác yến sào ở Hội An hiện nay do Đội Khai thác Yến, trực thuộc UBND Thị xã phụ trách. Mỗi năm, khai thác 2 kỳ ( vào tháng 4 và tháng 8 dương lịch).

Tổ yến sau khi khai thác, mang về làm sạch bằng cách lấy dao nhọn hoặc nhíp nhặt hết lông, phân chim, rêu và bùn đất. Phải hàng hai chục công nhân làm trong vài ngày. Sau đó phân thành các hạng căn cứ theo kích thước màu sắc, khối lượng gồm: Yến huyết, yến thiên, yến quang, yến bài, yến địa, yến vụn. Giá yến bình quân 3.000USD/kg.

Hàng năm vào ngày 10/3 âm lịch, cư dân và những người làm nghề khai thác yến tổ chức cúng rất linh đình để chuẩn bị bắt tay vào vụ khai thác mới. Công trình chính gồm 2 nếp nhà nối liền thông với nhau, mái lợp ngói âm dương. Nếp thứ nhất hệ vì kèo cấu tạo theo kiểu chồng rường giả thủ. Nếp thứ hai hệ vì kèo cấu tạo theo kiểu khung cụi chính giữa rồi bắt quyết qua 4 mái.

< Cổng vào miếu tổ.

Trên bàn thờ, ngoài các bài vị của những bậc tiền bối khai sáng nghề yến sào là các vị thần liên quan đến sông biển. Trên tường bên hữu có tấm bia đá ghi công đức của các chư phái tộc và ca tụng vẻ núi non kỳ vĩ của Cù Lao xứ. Miếu thờ Tổ nghề Yến cung cấp nhiều thông tin quý về kiểu thức xây cất và nghệ thuật trang trí đậm đà tính dân gian

Vào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương (10-3 ÂL), cư dân làng yến Thanh Châu - Hội An tổ chức Lễ giỗ tổ nghề yến tại miếu Tổ nghề ở thôn Bãi Hương - Cù Lao Chàm. Đây là một nghề truyền thống mang đậm dấu ấn sáng tạo của cư dân địa phương, chuyên khai thác sản vật từng được mệnh danh là “vàng trắng xứ Quảng”…

Giỗ Tổ nghề Yến là một lễ lệ dân gian có từ lâu đời nhằm cầu mong biển trời phù hộ và tưởng niệm tri ân các bậc tiền bối đã có công trạng đối với nghề khai thác Yến sào; đồng thời nâng cao niềm tự hào và ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm của vùng biển đảo thân yêu. Tuy nhiên, lễ lệ giỗ tổ nghề Yến từng bị mai mọt khá nhiều qua thời gian và bao biến thiên lịch sử, mới được lưu tâm phục hồi mấy năm gần đây nhưng lại thiếu tính chủ động và ổn định.

Các hoạt động Giỗ Tổ nghề Yến năm nay là sự kiện văn hóa- du lịch quan trọng nằm trong chuỗi chương trình Năm Du lịch quốc gia Quảng Nam- 2006 nhằm giới thiệu và quảng bá một nghề truyền thống đặc trưng của cư dân sông nước Hội An tiếp tục được lưu truyền đến ngày nay, gắn với một đặc sản quý nổi tiếng khắp trong và nài nước; đồng thời góp phần khám phá vẻ đẹp quyến rũ của đất nước, biển trời và con người hải đảo; qua đó góp phần chọn lựa để định hướng cho việc tổ chức các hệ thống lễ hội truyền thống dân gian gắn với phát triển du lịch của Hội An.

Các hoạt động Giỗ Tổ nghề Yến hàng năm thường diễn ra vào các ngày mồng 9 và 10 tháng Ba âm lịch tại xã đảo Tân Hiệp - Cù Lao Chàm, với nhiều hoạt động phong phú: Tế Tổ nghề Yến, Vui hội làng chài ( đua ghe ngang, kéo co bằng thuyền trên biển, hội Bài chòi, trò chơi bịt mắt đập nồi), đêm hội Cù lao (biểu diễn nghệ thuật cổ truyền, giao lưu văn nghệ đất liền- hải đảo- du khách), Chợ ẩm thực món đặc sản Cù Lao Chàm (các đặc sản biển, rau rừng, bánh ít, tổ yến khô, yến chưng hột sen, rượu yến, rượu hải sâm- bào ngư...), tour tham quan thắng cảnh biển đảo- các khu du lịch Cù Lao Chàm, hang Yến sào (hang Tò Vò), làng chài Bãi Hương, xem san hô, các loài hải sản dưới biển bằng thuyền đáy kính và thúng đáy kính khu vực Bãi Nần.

Có thể nói, khác với các nghề mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà mang tính kế thừa truyền thống của cư dân Việt từ đồng bằng Bắc Bộ, nghề khai thác yến sào Hội An hình thành do sự sáng tạo độc lập, phù hợp với môi trường cư trú, điều kiện tự nhiên và tiềm năng khai thác, chinh phục thiên nhiên của người lao động nơi đây. Cù Lao Chàm đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn, bởi ở đây không những có các rạn san hô, bãi biển đẹp, các món ngon như vú nàng, vú xao… mà còn có những di chỉ văn hóa độc đáo. Làng nghề yến, miếu tổ nghề yến là một trong những địa chỉ thu hút sự quan tâm đặc biệt của du khách gần xa.

Dân đảo tin rằng, năm nào lễ tạ diễn ra trong thời tiết trong trẻo, biển yên, sóng lặng, các trò hội rộn rã, đông đảo người tham gia thì năm ấy vụ yến sào được mùa…

- Theo Cyworld.vn, Danviet